Vừa qua, những tranh luận gay gắt xung quanh cuộc đàm phán tăng lương tối thiểu vùng năm 2016 đã thu hút được sự quan tâm rộng rãi của dư luận. Trong khi Tổng liên đoàn Lao động Việt Nam đề xuất mức tăng là 16%, thì phần lớn các hiệp hội doanh nghiệp trong và ngoài nước lại cho rằng, mức tăng chỉ khoảng 6 - 7% mới là hợp lý.
Nếu như các đề xuất của bên đại diện cho người lao động được dựa trên cơ sở mức sống tối thiểu, thể hiện những mong muốn về một cuộc sống tốt hơn cho người công nhân, thì những kiến nghị của bên đại diện cho người sử dụng lao động lại đứng trên góc độ khả năng chi trả và sức cạnh tranh của doanh nghiệp.
Rõ ràng là giữa mong muốn và khả năng vẫn còn một khoảng cách khá xa và mỗi bên cần phải có những nhượng bộ nhất định để tiến tới những lợi ích chung mang tính tổng thể.
Có thể nói rằng, các đề xuất khối doanh nghiệp đưa ra được dựa trên quy luật phát triển của kinh tế thị trường, theo đó tốc độ tăng lương cần bám sát tốc độ tăng năng suất lao động cộng với tốc độ mất giá của đồng tiền. Nếu tốc độ tăng lương vượt quá xa so với tổng của hai biến số này, doanh nghiệp sẽ rơi vào tình trạng thua lỗ, thậm chí phá sản, tăng trưởng kinh tế sẽ chậm lại và thất nghiệp sẽ gia tăng.
Một số tổ chức quốc tế cũng ủng hộ đề xuất của các hiệp hội doanh nghiệp tại Việt Nam. Nghiên cứu gần đây của Ngân hàng Thế giới đưa ra quan điểm “Việt Nam tăng lương tối thiểu thì giảm tăng việc làm”. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) cũng đưa ra cảnh báo năng suất lao động của Việt Nam đang ở mức thấp nhất trong khu vực (chỉ bằng 1/15 của Singapore, 1/5 của Malaysia và 2/5 của Thái Lan). Với năng suất lao động của Việt Nam trong thập kỷ qua chỉ tăng khoảng 3%/năm, lạm phát hiện nay dưới 1% và dự báo cả năm 2015 và 2016 ở mức dưới 3%, mức tăng lương tối thiểu vùng 6-7% cho năm 2016 là phù hợp.
Mặc dù vậy, cũng cần phải khẳng định rằng, mức sống của người công nhân hiện nay còn thấp, cuộc sống của người công nhân hiện nay còn nhiều khó khăn và các doanh nghiệp cũng cần phải có trách nhiệm nhất định trong việc đưa mức tiền lương tối thiểu tiếp cận mức sống tối thiểu.
Trên quan điểm của VCCI, với tốc độ tăng năng suất lao động hiện nay khoảng 3%, tốc độ trượt giá của đồng tiền khoảng 1-3%, một mức tăng lương tối thiểu vùng khoảng 9 -10% là hài hoà. Nếu lương tối thiểu năm 2016 tăng quá mức này, sẽ không có lợi cho việc tạo thêm việc làm mới cho người lao động và thất nghiệp sẽ gia tăng.
Trên thực tế, tốc độ tăng lương tối thiểu tại Việt Nam trong thời gian qua là rất cao. Các số liệu cho thấy, tiền lương tối thiểu đã tăng từ mức 350.000 đồng/tháng vào năm 2005 lên mức 2.150.000 đồng/tháng vào năm 2015 (đối với vùng IV). Tổng mức tăng chung trong cả giai đoạn là 6,14 lần, tương đương mức tăng trung bình khoảng 20%/năm.
Trong khi đó, như đã nói ở trên, mức tăng năng suất lao động kể từ năm 2005 đến nay trung bình chỉ khoảng 3%/năm. Nếu cộng thêm mức độ trượt giá của tiền đồng trong giai đoạn 2005-2015 ở mức gần 10%/năm, khoảng cách giữa tốc độ tăng lương và tốc độ tăng năng suất lao động vẫn là một con số rất lớn.
Chắc chắn là các doanh nghiệp Việt Nam không thể chịu đựng được một mức tăng lương cao và kéo dài như vậy. Các số liệu về việc làm tại Việt Nam gần đây cho thấy, các tác động tiêu cực của việc tăng lương cao và kéo dài ngày càng lớn.
Ngày 20-7-2015, Viện Lao động và Xã hội công bố bản tin cập nhật thị trường lao động Quý I/2015 cho thấy tỷ lệ thất nghiệp và tỉ lệ thiếu việc làm trong nền kinh tế đang gia tăng. Tỷ lệ thất nghiệp trong độ tuổi lao động của cả nước là 2,43% tăng 0,22 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm 2014. Cả nước hiện có hàng triệu người thất nghiệp và thiếu việc làm. Riêng tỷ lệ thất nghiệp ở nông thôn đã gia tăng 0,42 điểm phần trăm so với cùng kỳ năm trước và gấp đôi tỷ lệ gia tăng thất nghiệp chung.
Nếu như trước đây, Bộ Lao động Thương binh và Xã hội giải thích tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam thấp là do những người không tìm được việc làm ở thành thị đã trở về nông thôn để tham gia sản xuất nông nghiệp, thì đến nay nông thôn cũng không còn là chốn để những người thất nghiệp có thể dung thân.
Những số liệu trên cảnh báo chúng ta rằng: việc tạo thêm nhiều việc làm mới cho nền kinh tế, đặc biệt cho người lao động ở nông thôn, đã trở thành vấn đề rất cấp bách và thậm chí là vấn đề cần quan tâm bậc nhất ở Việt Nam. Và việc tăng lương tối thiểu ở mức quá cao sẽ không có lợi cho việc đạt được mục tiêu này. Vì một mặt, sẽ không khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư mới, tạo việc làm. Mặt khác, đối với các doanh nghiệp còn đang hoạt động, thì có đến gần 70% không có lãi,việc tăng lương tối thiểu không hợp lý sẽ làm gia tăng tình trạng thua lỗ của các doanh nghiệp, buộc họ phải thu hẹp sản xuất, đẩy người lao động đang có việc làm ở thành thị trở lại nông thôn, làm tiếp tục gia tăng tình trạng thất nghiệp và gây bất ổn xã hội.
Tình hình việc làm của người lao động ở nông thôn sẽ còn cấp bách hơn khi Việt Nam ký kết TPP. Nếu TPP được ký kết, ngành chăn nuôi, khu vực có đến 10 triệu lao động đang làm việc, sẽ chịu thiệt hại nặng nề nhất do cạnh tranh từ bên ngoài, mà như một số chuyên gia ví von, là sẽ rơi vào tình trạng “tối như Đêm ba mươi”.
Bởi vậy, nếu các khu vực sản xuất khác như dệt may, da giày, lắp ráp điện tử, thủy sản…, những ngành thâm dụng lao động và được hưởng lợi từ TPP, không thể tạo thêm nhiều việc làm mới do chi phí nhân công cao, tăng trưởng đầu tư thấp, thất nghiệp sẽ trở thành vấn đề nhức nhối đối với nền kinh tế, chính trị và xã hội Việt Nam trong thời gian tới.
Chúng ta cũng cần tham khảo kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc tăng lương tối thiểu. Theo các lý giải của nhiều chuyên gia, do chi phí tiền lương tại Trung Quốc đã tăng khoảng 10%/năm trong vòng một thập kỷ qua, nên sức cạnh tranh của hàng hóa Trung Quốc trên thị trường thế giới ngày càng bị suy giảm. Hệ quả là các nhà đầu tư nước ngoài đang rời khỏi Trung quốc, tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc gần đây đã giảm xuống mức còn 7% so với mức 10% trước kia, còn xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 7-2015 vừa qua đã giảm tới 8,9% so với một năm trước đó.Chính vì những điều nói trên, nên Trung Quốc buộc phải thực hiện phá giá đồng nhân dân tệ để thúc đẩy xuất khẩu và tạo việc làm cho công nhân.
Cũng cần nói thêm rằng, sự kiện Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ 4,5% vừa qua đã khiến cho nỗi lo hàng hóa giá rẻ của Trung Quốc tràn qua biên giới vào Việt Nam tăng cao hơn bao giờ hết. Các đề nghị phá giá VND để nâng cao sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam xuất hiện với tần suất dày đặc trên các phương tiện thông tin đại chúng. Ngân hàng Nhà nước, cuối cùng, cũng phải phá vỡ cam kết trước đó của mình, đưa ra quyết định điều chỉnh tỷ giá thêm 1% cùng với việc nới rộng biên độ giao dịchtừ +/- 1% lên +/- 3%.
Tuy nhiên, trái ngược với sự kiện trên, các tác động của đề xuất tăng lương tối thiểu vùng thêm 16% từ phía Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam đến sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam lại chưa nhận được những phân tích thấu đáo từ phía các chuyên gia, các nhà khoa học.
Đây thực sự là điều đáng tiếc!
Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào mức tăng chi phí sản xuất. Tại các ngành sử dụng nhiều lao động, chi phí tiền lương là một phần đáng kể, thậm chí là phần mang tính quyết định, tạo nên sức cạnh tranh của hàng hóa. Đối với các doanh nghiệp mà chi phí lao động chiếm trên 30% tổng chi phí, việc tăng lương thêm 16% sẽ khiến cho giá thành tăng thêm ít nhất 5%. Với họ, đây chẳng khác gì một cú sốc phá giá đồng nhân dân tệ lần thứ hai!
Tóm lại, vấn đề tạo việc làm cho người lao động hiện nay là rất cấp bách. Bởi vậy, những người có trách nhiệm trong đàm phán tiền lương cần có cái nhìn duy lý, dựa trên các cơ sở khoa học, tuân theo các quy luật khách quan, hướng tới mục tiêu chung và dài hạn là năng lực cạnh tranh của nền kinh tế cũng như tạo việc làm cho người lao động và nhất định phải ngăn chặn tình trạng thất nghiệp đang gia tăng hiện nay.
(Theo TBKTSG)